Scholar Hub/Chủ đề/#cường độ chịu uốn/
Cường độ chịu uốn là một thuộc tính vật lý cho biết mức độ mà vật liệu có thể chịu được biến dạng uốn hay co giãn trước sự tác động của lực. Nó thường được đo b...
Cường độ chịu uốn là một thuộc tính vật lý cho biết mức độ mà vật liệu có thể chịu được biến dạng uốn hay co giãn trước sự tác động của lực. Nó thường được đo bằng cách áp dụng lực uốn lên vật liệu và đo độ lệch của vật liệu sau khi bị uốn. Cường độ chịu uốn càng cao thì vật liệu càng kháng uốn tốt hơn. Định lượng cường độ chịu uốn được thể hiện thông qua đặc tính cơ học như độ bền uốn, độ nhẹ uốn, lực uốn cực đại, và mô đun đàn hồi của vật liệu.
Cường độ chịu uốn là một đặc tính cơ học quan trọng để đánh giá khả năng chịu lực uốn của vật liệu. Nó phản ánh khả năng chịu được lực tác động uốn mà không gây nứt, biến dạng vĩnh viễn hoặc hỏng hóc.
Cường độ chịu uốn có thể đo và xác định bằng nhiều phương pháp, nhưng phương pháp phổ biến nhất là thử nghiệm ba điểm uốn và thử nghiệm cầu. Thử nghiệm ba điểm uốn thường được sử dụng để đo cường độ chịu uốn của các vật liệu dẻo, trong khi thử nghiệm cầu thường áp dụng cho các vật liệu giòn.
Trong thử nghiệm ba điểm uốn, một thanh mẫu được uốn thành dạng chữ U theo một cách cố định. Lực uốn được áp dụng ở trung tâm thanh mẫu, gây biến dạng chéo và tạo ra một lực phản hồi trên hai đầu còn lại của thanh mẫu. Đo lường và tính toán lực phản hồi cho phép xác định cường độ chịu uốn của vật liệu.
Thử nghiệm cầu là một phương pháp sử dụng một miếng vật liệu hình cầu hoặc hình cầu móng tay. Lực uốn được áp dụng lên miếng vật liệu cho đến khi nó gãy hoặc xuất hiện nứt. Cường độ chịu uốn được tính bằng cách chia lực uốn tối đa cho diện tích tiết diện của miếng vật liệu.
Cường độ chịu uốn thường được biểu thị bằng MPa (megapascal) hoặc N/m^2 (newton trên mét vuông). Giá trị cường độ chịu uốn thường khác biệt tùy thuộc vào đặc tính của vật liệu, kết cấu của mẫu thử, điều kiện thử nghiệm, và công nghệ sản xuất.
Theo đó, cường độ chịu uốn càng cao thì vật liệu càng kháng uốn tốt, giúp đảm bảo tính ổn định và độ bền của sản phẩm hoặc cấu trúc sử dụng vật liệu đó.
Để hiểu chi tiết hơn về cường độ chịu uốn, có thể tìm hiểu về các đại lượng cụ thể liên quan đến nó:
1. Độ bền uốn (Bending strength): Đây là đại lượng quan trọng được sử dụng để đánh giá khả năng chịu lực uốn của vật liệu. Nó cho biết mức độ lực tác động uốn lớn nhất mà vật liệu có thể chịu trước khi gãy. Đơn vị của độ bền uốn thường là MPa.
2. Độ nhẹ uốn (Flexural modulus): Đây là một khái niệm được sử dụng để mô tả độ cứng của vật liệu khi chịu lực uốn. Đo đạc được thông qua việc đo độ thay đổi của điểm trung tâm của thanh mẫu uốn theo lực uốn được áp dụng. Đơn vị của độ nhẹ uốn thường là GPa.
3. Lực uốn cực đại (Maximum bending force): Đây là lực tối đa mà vật liệu có thể chịu trước khi gãy trong quá trình chịu uốn. Được đo bằng cách áp dụng lực uốn đến khi vật liệu gãy.
4. Mô đun đàn hồi (Elastic modulus): Đây là đại lượng quan trọng cho biết độ co giãn của vật liệu khi chịu lực uốn. Nó mô tả mức độ đàn hồi của vật liệu khi lực uốn được áp dụng và được tính bằng cách chia lực uốn cho độ biến dạng co giãn.
Cường độ chịu uốn của vật liệu có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau bao gồm thành phần vật liệu, cấu trúc mẫu thử, quá trình sản xuất và điều kiện môi trường. Ví dụ, với vật liệu sợi thủy tinh cường độ chịu uốn sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ sợi thủy tinh và ma trận nhựa.
Cường độ chịu uốn được sử dụng để đánh giá tính chất cơ học của vật liệu và đảm bảo rằng nó đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong các ứng dụng khác nhau như trong công nghiệp xây dựng, ô tô, hàng không vũ trụ, điện tử, v.v.
Nghiên cứu thực nghiệm đánh giá khả năng nứt ở độ tuổi ban đầu của bê tông thường và bê tông cường độ cao bằng phương pháp vòng kiềm chế Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2023
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá khả năng nứt ở độ tuổi ban đầu của bê tông thường (NC) và bê tông cường độ cao (HC) bằng phương pháp vòng kiềm chế, nhằm cung cấp cho việc dự đoán khả năng ứng xử của từng loại bê tông để từ đó đưa ra những biện pháp thi công phù hợp cho công trình xây dựng. Hai loại bê tông được khảo sát bao gồm NC với mác thiết kế M350 và HC với mác thiết kế M600. Kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rằng khi so với NC, HC có tốc độ co ngót nhanh hơn trong 24 giờ đầu, và tăng rất chậm trong những ngày sau đó. Vết nứt xuất hiện trong HC thường xảy ra rất sớm khi so sánh với NC. Khả năng nứt của bê tông có thể được đánh giá dựa trên thời điểm nứt hoặc tốc độ phát triển ứng suất kéo theo thời gian của bê tông, không phụ thuộc vào loại bê tông. Kết luận rằng, việc dự đoán khả năng nứt trong mỗi loại bê tông thông qua thí nghiệm vòng kiềm chế mang tính khả thi để từ đó có thể đưa ra nhiều biện pháp thi công phù hợp khi áp dụng từng loại bê tông trong xây dựng.
#Cường độ chịu nén #Cường độ chịu kéo #Mô đun đàn hồi #Mức ứng suất kéo #Phương pháp vòng kiềm chế
Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay cao đến các tính chất cơ lý của hồ xi măngViệc nghiên cứu tái sử dụng phụ phẩm công nghiệp để sản xuất vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường rất được quan tâm bởi nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Nghiên cứu đánh giá các ảnh hưởng của hàm lượng tro bay (FA) dùng như một phụ gia khoáng thay thế xi măng đến các tính chất kỹ thuật của hồ xi măng. FA được sử dụng thay thế xi măng poóc lăng từ 0 – 80% theo khối lượng. Kết quả cho thấy, tăng hàm lượng FA làm cho hỗn hợp có khả năng chảy tốt hơn nhưng thời gian đông kết lâu hơn. Tuy nhiên, các mẫu chứa nhiều FA hơn có cường độ chịu nén thấp hơn và độ hút nước cao hơn. Việc thêm FA làm giảm đáng kể độ co khô của hồ xi măng. Ở 28 ngày, các mẫu chứa 80% FA có giá trị cường độ chịu nén, độ hút nước và độ thay đổi chiều dài bằng khoảng 45,2%, 136,8% và 55,7% so với các giá trị tương ứng của mẫu không có FA. Do đó, tùy vào mục đích ứng dụng cụ thể mà chọn hàm lượng FA hợp lý.
#Hàm lượng tro bay cao #hồ xi măng #độ lưu động #thời gian đông kết #độ hút nước #cường độ chịu nén #độ co khô
Đánh giá cường độ chịu nén của cọc xi măng đất được chế tạo trong phòng thí nghiệm và hiện trường Cọc xi măng đất (CXMĐ) ngày càng phổ biến và được sử rộng rãi trong việc gia cố nền đất yếu, đặc biệt tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Phương pháp nén đơn trục trong phòng được sử dụng trong nghiên cứu này nhằm đánh giá cường độ chịu nén của cọc xi măng đất. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng XM/Đ ít nhất từ 300 kg/m3 trở lên được xem là phù hợp với địa chất yếu tại khu vực nghiên cứu. Ngoài ra, tỷ lệ cường độ chịu nén của cọc xi măng đất ngoài hiện trường so với trong phòng thí nghiệm tại các khu vực nghiên cứu nằm trong khoảng (0,32÷0,96). Điều này cho thấy phương pháp thi công CXMĐ (jet-grouting) đảm bảo chất lượng với hệ số tương quan cao hơn so với hệ số được đề nghị trong tiêu chuẩn hiện hành.
#Cọc xi măng đất #Cường độ chịu nén #Đất yếu
Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay thay thế một phần xi măng đến các tính chất của bê tông cường độ caoNghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sử dụng nguồn phụ phẩm tro bay từ nhà máy nhiệt điện trong chế tạo bê tông cường độ cao. Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay dùng để thay thế một phần xi măng (0 – 50 % với bước tăng 10 %) đến các tính chất kỹ thuật của bê tông cường độ cao đã được nghiên cứu thông qua hệ thống các thí nghiệm bao gồm: đánh giá độ sụt, khối lượng thể tích, cường độ chịu nén, độ hút nước, độ co khô và vận tốc truyền sóng siêu âm. Kết quả thí nghiệm cho thấy tính công tác của hỗn hợp bê tông tăng và độ hút nước của mẫu bê tông cũng tăng tương ứng với hàm lượng tro bay trong cấp phối. Trong khi đó, cường độ chịu nén và vận tốc truyền sóng siêu âm giảm khi tăng hàm lượng tro bay thay thế xi măng. Việc thay thế xi măng bằng tro bay mang lại hiệu quả trong việc làm giảm khối lượng thể tích và độ co khô của bê tông. Các mẫu bê tông trong nghiên cứu này có chất lượng và độ bền tốt với giá trị tốc độ truyền sóng siêu âm ở mức > 4570 m/s. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có thể thay thế đến 40 % xi măng bằng tro bay trong sản xuất bê tông cường độ cao với giá trị cường độ chịu nén ở 28 ngày tuổi ≥ 55 MPa.
#Bê tông cường độ cao #Tro bay #Độ sụt #Cường độ chịu nén #Độ co khô
Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay lên các đặc tính kỹ thuật của gạch không nungSử dụng gạch không nung thay thế gạch đất sét nung truyền thống là một giải pháp hữu ích nhằm giảm thiểu các tác hại đến môi trường. Bên cạnh đó, việc sử dụng tro bay thay thế một phần xi măng trong sản xuất gạch không nung góp phần giảm đáng kể lượng CO2 phát thải ra bầu khí quyển. Bài báo này nghiên cứu khả năng ứng dụng tro bay thô của nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn trong sản xuất gạch không nung. Hàm lượng tro bay được sử dụng để thay thế 0%, 15%, 30%, và 50% xi măng trong cấp phối gạch. Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay lên các đặc tính kỹ thuật của viên gạch được đánh giá. Phân tích chi phí sản xuất và cấp phối tối ưu cũng được thực hiện. Kết quả thí nghiệm cho thấy, tất cả các mẫu gạch đều có các thông số kỹ thuật thỏa mãn theo TCVN 6477-2011. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng cho thấy rằng khi hàm lượng tro bay tăng thì cường độ chịu nén, khối lượng thể tích và chi phí giảm, nhưng độ hút nước của gạch tăng.
#gạch không nung #tro bay #cường độ chịu nén #độ hút nước #khối lượng thể tích
Cải thiện bám dính giữa các lớp in 3D bê tông bằng hồ xi măng biến tínhBêtông in 3D là một công nghệ hoàn toàn mới, nó được phát triển nhanh chóng thành một kỹ thuật được sử dụng mang nhiều lợi ích trong ngành xây dựng. Nhưng bên cạnh đó, công nghệbê tông in 3D vẫn tồn tại một vài hạn chế. Trong đó, sự liên kết bám dính giữa hai lớp bê tông 3D được coi là điểm yếu nhất, nguyên nhân chủ yếu do bề mặt tiếp xúc giữa hai lớp bê tông in bị khô và xuất hiện lỗ rỗng trên bề mặt lớp in bê tông, làm ảnh hưởng đến tính chất cơ học. Bài báo này trình bày nghiên cứu nhằm đưa ra một giải pháp cải thiện bám dính giữa các lớp bê tông in 3D bằng cách sử dụng bốn loại hồ xi măng tạo thành một lớp trung gian giữa các lớp bê tông làm tăng cường độ bám dính và giảm thiểu lỗ rỗng. Các đặc trưng về độ chảy, cường độ chịu nén, cường độ kéo đứt thử bám dính nền cũng được đo để khảo sát phân tích sự tương quan đến cường độ bám dính giữa các lớp bê tông để hiểu sâu về cơ chế bám dính. Kết quả cho thấy, mẫu sử dụng phụ gia Sikament R7N cho kết quả cường độ bám dính giữa các lớp bê tông cao nhất. Ngược lại mẫu sử dụng phụ gia Sika Latex TH cho kết quả thấp hơn mẫu đối chứng.
#In 3D bê tông #Độ chảy xòe #Cường độ chịu nén #Cường độ bám dính #Cường độ kéo đứt thử bám dính nền
Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) giống ương theo công nghệ bioflocTạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Tập 54 - Trang 35-44 - 2018
Nghiên cứu nhằm tìm ra ảnh hưởng của cường độ ánh sáng lên tăng trưởng và tỷ lệ sống trong ương giống tôm càng xanh theo công nghệ biofloc. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với các mức che lưới khác nhau (1) không che lưới, (2) che một lớp lưới, (3) che hai lớp lưới và (4) che ba lớp lưới. Bể ương tôm có thể tích 500 lít, tôm giống có khối lượng 0,006 g/con, mật độ 1.000 con/m3, độ mặn 5‰, sử dụng bột gạo để tạo biofloc với tỷ lệ C/N=15. Theo kết quả nghiên cứu sau 30 ngày ương, tốc độ tăng trưởng tương đối về chiều dài, khối lượng của tôm ở nghiệm thức không che lưới là (3,37±0,18%/ngày) và (11,4±0,62%/ngày) cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức có che lưới. Tỷ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức không che lưới (91,5±5,33%) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p
#Biofloc #cường độ ánh sáng #tôm càng xanh
Các tính chất kỹ thuật của chất kết dính sulfate hoạt hóa được chế tạo từ các hàm lượng khác nhau của tro bay và xỉ lò cao nghiền mịnViệc nghiên cứu chất kết dính mới thân thiện hơn với môi trường để thay thế cho xi măng Poóclăng truyền thống trong các hoạt động xây dựng đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Tiềm năng của việc hoạt hóa hỗn hợp tro bay (FA)-xỉ lò cao nghiền mịn (GGBFS) bằng Na2SO4 công nghiệp để sản xuất chất kết dính sulfate hoạt hóa (SAB) được giới thiệu trong nghiên cứu này. Các mẫu SAB được chuẩn bị với các tỷ lệ FA/GGBFS (theo khối lượng) là 5/95, 10/90, 15/85, 20/80 và 30/70. Kết quả cho thấy hỗn hợp SAB thể hiện khả năng chảy tốt hơn với hàm lượng FA cao hơn. Trước 7 ngày, cường độ của các mẫu SAB giảm khi hàm lượng FA tăng. Tuy nhiên, cường độ của các mẫu SAB chứa 20 và 30% FA có xu hướng tăng lên ở 28 ngày tuổi. Độ hút nước của các mẫu SAB ở 28 ngày dao động từ 12,29% đến 14,11%. Bên cạnh đó, sử dụng nhiều FA mang lại hiệu quả tích cực trong việc giảm độ co khô của các mẫu SAB. Tỷ lệ FA/GGBFS = 30/70 được khuyến nghị để sản xuất SAB cho mục đích xây dựng bền vững.
#Chất kết dính sulfate hoạt hóa #tro bay #xỉ lò cao nghiền mịn #natri sulfate #thời gian đông kết #cường độ chịu nén
Ảnh hưởng của tro bay nhiệt điện duyên hải đến cường độ chịu nén và khả năng chống thấm của bê tôngTro bay loại F nhà máy nhiệt điện Duyên Hải được dùng để thay thế xi măng với các tỉ lệ khối lượng là 0%, 10%, 20% và 40%, tỉ lệ nước/chất kết dính là không đổi 0.3 và phụ gia giảm nước được sử dụng ở tỉ lệ 0.8% khối lượng chất kết dính. Cường độ chịu nén và cấp chống thấm của bê tông được xác định tại các thời điểm 28, 56 và 90 ngày. Kết quả cho thấy rằng cường độ chịu nén bê tông có phụ gia giảm nước sau 28 ngày tăng khi 10% và 20% tro bay được sử dụng để thay thế xi măng so với mẫu đối chứng trong khi cường độ chịu nén của bê tông 40% tro bay chỉ tăng hơn so với mẫu đối chứng sau 56 ngày. Tro bay góp phần tăng khả năng chống thấm của bê tông khi tỉ lệ thay thế xi măng từ 20% đến 40%. Tác giả đề xuất sử dụng 20% tro bay thay thế xi măng vì góp phần tăng cả cường độ chịu nén và khả năng chống thấm của bê tông sau 28 ngày tuổi.
#tro bay #phụ gia giảm nước #cường độ chịu nén #cấp chống thấm #độ linh động
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phụ gia siêu hóa dẻo đến tính công tác và cường độ của bê tông xi măng
Bài báo trình bày những kết quả nghiên cứu về tính công tác và cường độ chịu nén của bê tông xi măng khi thay đổi các loại phụ gia siêu dẻo (các gốc khác nhau như Sulfonat napthalen formaldehyde - SNF, Lignosulphunates - LSF và Polyacrylate) với xi măng Hoàng Thạch đang sử dụng phổ biến ở Miền Bắc Việt Nam. Kết quả thực nghiệm cho thấy tính công tác và cường độ chịu nén của bê tông xi măng sử dụng các loại phụ gia siêu dẻo khác nhau như Sikament NN (gốc SNF), Sikament R4 (gốc LSF), Rheobuild 561 (gốc Polyacrylate) với cùng liều lượng 0.8 l/100kg xi măng PCB30 ở các ngày tuổi khác nhau cho thấy có sự khác biệt. Độ sụt của bê tông sử dụng Silikament NN là cao nhất, trong khi Rheobuild 561 là thấp nhất. Cường độ chịu nén ở 28 ngày tuổi của bê tông sử dụng Rheobuild 561 là cao nhất, trong khi sử dụng Silikament NN là thấp nhất. Từ đó, cho thấy cần kiểm tra tính tương thích của xi măng và phụ gia trước khi sản xuất bê tông để lựa chọn loại phụ gia sử dụng phù hợp với mục đích, yêu cầu cụ thể.
#Phụ gia siêu dẻo #tính công tác #cường độ chịu nén #bê tông xi măng.